ttxcc2

Thông Tin Tổng hợp

26 NĂM LƯU ĐÀY (12)

CHƯƠNG 11

NHỮNG ÂN CÔNG… NHỚ MÃI TRONG ĐỜI

Trải qua 26 năm dài trong nhà tù Cộng Sản, bản thân tôi đã từng nếm đủ mùi chua cay, mặn nồng, ấm lạnh, đói no và khổ nhục. Cuối cùng tôi chỉ còn nhớ một câu xem như là tư tưởng để đánh giá con người “Chân giá trị của con người khó có thể đánh giá trong đời sống bình thường, mà chỉ có thể đánh giá chính xác trong lúc khốn cùng nhất của cuộc sống”. Tôi không nhớ bao nhiêu việc thiện, bao nhiêu người mình đã giúp đỡ, nhưng tôi không thể quên được cho dù những việc nhỏ nhất, những ai đã giúp đỡ mình trong lúc khốn cùng, những người mà tôi mang ơn và trân trọng khá nhiều từ trong nhà tù Xuân Phước cho đến trại Xuân Lộc, Đồng Nai đó là:

ÔNG PHẠM TRẦN ANH

Một người anh em kết nghĩa hoặc gọi là kết bạn vong niên. Anh tốt nghiệp Đốc sự hành chánh đã từng giữ chức vụ Phó Quận trưởng, Phụ tá Hành chánh tỉnh của chế độ VNCH. Anh có một tấm lòng rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người, có trình độ nhận thức cao, có đầy đủ chí khí và tinh thần nhiệt huyết, phong cách bình dị, sống gần gũi anh em, rất thông cảm với đồng tù đặc biệt là dân tộc thiểu số hay những người nghèo khổ bệnh hoạn. Anh thường lui tới an ủi tâm sự với những người có trình độ kém thấp, hoặc khốn khó, bơ vơ trong tù. Anh đã từng leo rào vào ăn uống với anh em bị bệnh lao ở trại tù Xuân Lộc mà không sợ bị kỷ luật, bị lây nhiễm.

Dù biết rằng trong cuộc đời “nhân vô thập toàn” ắt hẳn không ai là hoàn hảo cả, bản thân tôi và anh cũng thế! Tôi luôn luôn nghĩ rằng “Nhân tận kỳ tài” mỗi người sinh trên đời đều có một tài năng riêng nhưng chưa biết đúng chỗ phát huy. Tôi hy vọng mọi việc hanh thông sẽ dành phần cho người tốt như anh. Anh Phạm Trần Anh đối với tôi có 4 điểm anh vừa là người anh kết nghĩa, vừa là người bạn đồng tù, vừa là một Phật tử rất kính trọng Thầy tu, lại vừa là Mạnh Thường Quân hộ giúp tôi rất nhiều trong những năm tháng lưu đày nghiệt ngã.

Trải qua nhiều năm dài anh luôn giữ trọn tình trọn nghĩa, tôi vô cùng trân trọng, mặc dầu những ngày được trả tự do hoàn cảnh gia đình anh cũng gặp nhiều nghịch cảnh éo le. Thời gian tù đày người vợ vượt biên sang nước khác nay đã có chồng con. Khi anh trở về hoàn toàn cô quạnh, sự nghiệp trắng tay và phải chuẩn bị cho mình một cuộc sống mới, chắc chắn anh phải đương đầu hoặc ẩn nhẫn với một xã hội có nhiều định kiến.Tôi luôn tin tưởng một người có nghị lực và ý chí cao như anh, sẽ vượt qua tất cả những khúc khuỷu gập ghềnh. Trước nhất cần giữ “Nhẫn nhục phụ trọng” chịu đựng cảnh “Nghịch thuỷ hành châu” để một ngày không xa sẽ tận hưởng “Khúc chung tấu nhã”. Tôi luôn khắc ghi những tình cảm tốt đẹp của anh trong tâm khảm của mình, nên ghi tên anh đầu tiên trong những ân công của tôi trong tập Hồi Ký nầy.

BÁC SĨ NGUYỄN ĐAN QUẾ

DÒNG ĐỒNG CÔNG: Linh Mục Trần Đình Thủ, Thầy Chương, hầy Nguyễn Viết Huân, Thầy Nguyễn Văn Hiệp …

Thánh Đường cơ sở chính của Dòng Đồng Công tọa lạc tại Thủ Đức, dòng đã bị nhà nước CS Việt Nam chụp mũ, quy kết là tuyên truyền chống chế độ XHCN và phá hoại tình đoàn kết quốc tế. Sự việc chẳng qua là những nhà tu hành thấy nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam còn bị lầm lạc, bị lệ thuộc dưới ách thống trị của chủ nghĩa vô thần Các Mác LêNin, một học thuyết lỗi thời phản tiến hóa, phi nhân tính, phi dân tộc và phi tôn giáo. Quý Linh mục chỉ biết âm thầm, cầu xin ân Chúa cho chủ nghĩa bạo tàn sớm bị đào thải để cho nhân loại có cơ may sinh tồn và vơi đi thống khổ.

Lấy cớ xúc phạm đến Thầy Tổ của mình là CÁC-MÁC LÊNIN vào năm 1986 nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam 18 vị tu hành trong số ấy có Linh Mục Trần Đình Thủ với tuổi 90, trong cảnh “minh nguy ám nạn” các tôn giáo có dịp hội ngộ, cùng chịu cảnh đoạ đày trong gông cùm xiềng xích. Quý ngài có giúp đỡ tôi khá nhiều từ vật chất lẫn tinh thần, quý vị tính tình hài hòa, vui vẻ, chân tình và khiêm hạ, tôi luôn trân trọng và ghi mãi trong lòng.

Bản thân tôi và quý thầy Dòng Đồng Công có nhiều kỷ niệm đẹp đáng nhớ. Chúng tôi đều là nhà tu, tôi xuất gia còn các vị hiến thân cho đạo tuy tôn giáo có khác nhau nhưng cũng đều có một tâm hồn hướng thượng và phục vụ cho con người.

Kỷ niệm trước nhất là Thầy Nguyễn văn Hiệp nay đã là Linh Mục đang phụ xứ. Những ngày cùng ở chung trong một đội, một nhà, thỉnh thoảng chúng tôi đi xin từng đôi nước trên nhà bếp gánh thật xa xuống tận cuối dãy các phòng để giúp cho quý Cụ, quý Ôn tuổi cao bệnh tật, hoặc mù lòa, Thầy Hiệp thì sức khoẻ ốm yếu nhưng rất nhiệt tình. Thầy còn phải có nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho Linh Mục Trần Đình Thủ bởi tuổi quá cao, còn tôi làm thị giả hầu Hòa Thượng Thích Đức Nhuận hàng ngày, bên cạnh đó tôi và Thầy Hiệp còn phải lao động theo sự phân công của trại nữa. Cả hai chúng tôi rất thiết thân và nhiều tâm sự. Ngoài ra còn có Thầy Nguyễn Viết Huân tên trong đạo là Nguyễn Thiện Phụng, một người có đức hy sinh cao cả, cứu giúp mọi người trong cơn hoạn nạn khó khăn, trong đó Thầy cũng thường giúp đỡ cho bản thân tôi.

Theo sự nhận xét của tôi, dường như 26 năm tù tôi trải qua nhiều nhà giam, tôi rất ít gặp vị tu sĩ nào có đức hy sinh cao cả như hai Thầy. Những dòng chữ trong hồi ký này tôi muốn nói lên sự thâm tạ chân thành đối với cá nhân Thầy Huân, Thầy Hiệp, Quý Linh Mục, trong đó tôi rất trân trọng quý kính Linh Mục Trần Đình Thủ người sáng lập Dòng Đồng Công luôn thực thi đức Bác ái bằng sự tự lực cánh sinh, thể hiện nếp sống hòa mục yêu thương mang đậm nét tình Huynh Đệ.

Đặc biệt, dòng khai mở tại VN do người VN sáng lập, trong dòng không xưng hô gọi nhau bằng Linh Mục mà chỉ gọi nhau bằng anh và xưng là em dầu là phẩm trật, hay tuổi tác thế nào, dòng được mang dấu ấn trên tinh thần Việt Tộc. Mấy lời trần tình hôm nay xin đề cập đến quý vị bạn Đạo đã từng cùng tôi trải qua bao năm đọa dày trong cảnh khổ bên nhau..

HOÀ THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN NGUYÊN TỔNG THƯ KÝ VIỆN TĂNG THỐNG GHPGVNTN.

Mặc dù, trong chốn lao tù, nhưng được gần gũi hầu bên cạnh Ngài cũng đã là có duyên phúc nhiều đời.Từ năm 1989 tôi chuyển từ trại Xuân Phước về trại Xuân Lộc được gặp gỡ Hòa Thượng. Khi nghe tôi tường thuật lại ròng rã nhiều năm dài bị lưu đày biệt xứ, Hòa Thượng rơi nước mắt và nói “Âu cũng là nghiệp! Đại Đức đã ở trại Xuân Phước, nay Xuân Lộc thì sẽ Xuân Thọ thôi!” Những ngày chuyển vào K2 dần dần tôi có dịp kề cận bên Ngài, tôi được Hòa Thượng thương yêu dạy dỗ hết lòng, ở gần được tiếp kiến Hòa Thượng một ngày bằng 1 năm tu học và còn hơn thế nữa, cho dù sức khoẻ của Hòa Thượng thường hay suy kém, với tuổi cao niên, tuổi mãn chiều xế bóng.

Nhưng HT vẫn còn nhiều việc cưu mang canh cánh bên lòng vì lo lắng cho mạng mạch và tiền đồ của Dân tộc cũng như vận mệnh của Giáo Hội, nhất là đang trong thời điểm nhiễu nhương Pháp Nhược Ma Cường và Nội Suy Ngoại Chướng hiện nay.

Hòa thượng là một người điềm đạm, khoan hòa, đức độ cao thượng, trí tuệ tuyệt vời, uyên thâm Phật lý, lời lẽ huyền nhiệm sâu xa, cung cách ứng xử lịch thiệp, tế nhị, một bậc tôn túc trưởng thượng khả kính. Ngài là tấm gương sáng cho đoàn hậu tấn noi theo. Những năm tháng lao tù, mọi người chung quanh trong đó có tôi đã học ở Hòa Thượng rất nhiều điều. Hoà Thượng quan tâm cho bản thân tôi cả hai mặt tinh thần và vật chất, kể cả tập thơ “Bản Án Chế Độ” của tôi rất dài (đã bị thất lạc) cũng do Hòa Thượng hiệu chính lại và Hòa Thượng khuyên bảo tôi nên nằm lòng và phải thực hiện bài phát nguyện như sau: (Bài nầy một thời Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa hay dạy trong những khóa “Như Lai sứ giả”và cũng được áp dụng trong những khoá huấn luyện trụ trì toàn quốc) .

“Con là Sứ giả Như Lai
Phát nguyện suốt đời, hiến thân cho Đạo
Để phụng sự Đạo Pháp và phục vụ chúng sinh
Chỗ nào chúng sinh mời con đến
Chỗ nào Đạo Pháp cần con đi
Không kể gian lao, chẳng từ khó nhọc
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ Tát”

Sau đây là bức thư và hình ảnh của Hòa Thượng khi Ngài được trả tự do tại trại Z30D Hàm Tân. Sau khi trở về, Hoà Thượng đã gửi thư và nhờ anh Huỳnh Mạnh Hùng đến thăm nuôi tôi 1 lần tại trại Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai. Không những thế mà Hòa Thượng còn bảo Đạo hữu Nhật Thường và Chị Huỳnh Thu Vân, hiền thê của Đạo Hữu gởi điện thư về tận Bạc Liêu thông báo em ruột tôi tức Huỳnh Hữu Nhiều đến chùa Giác Minh viếng thăm Hòa Thượng. Hòa Thượng giúp tiền thăm nuôi tôi và còn bảo mỗi tháng đến để Ngài hộ giúp mặc dầu em tôi chỉ đến một lần, e ngại làm bận tâm Ngài vì trông thấy Hòa Thượng tuổi cao, đức trọng. Những tình cảm của Ngài dành cho tôi thật cao quý … những lời vàng ngọc dạy bảo của Ôn, tôi luôn khắc cốt ghi tâm.

Trong thời gian tôi ở trại giam Xuân Lộc, Hòa Thượng còn nhờ Đạo Hữu Nhật Thường tìm cách gửi tặng tôi quyển sách “Tinh hoa Phật Học” để làm phương tiện nghiên cứu học hỏi trau dồi nghĩa thú minh liễu, nhằm hiểu rõ thêm sâu xa những tinh hoa của triết lý Đạo Phật để người sứ giả Như Lai khi nào thoát khỏi cảnh “Cá chậu chim lồng” tiếp tục sự nhiệp“thượng hoằng Phật Đạo hạ Hóa Chúng sinh”

Ngoài bìa của quyển sách có ghi tặng tôi 2 câu như sau:

“ Đạo pháp vĩnh hằng,

sự nghiệp nầy sống cùng Giáo hội

Cuộc đời phù du,

nhân cách nầy còn mãi với anh em”

Cho dù gặp chướng duyên qua bao năm dài trong lao lý, nên thế thọ của tôi có nhiều hơn Pháp Lạp (hạ lạp). Nhưng tôi phát nguyện những ngày còn lại trong cuộc đời, tôi luôn khâm ngưỡng di ngôn của Hòa Thượng và “y giáo phụng hành”. Tôi sẵn sàng cùng Chư Tôn Đức, Pháp quyến để góp phần trong công cuộc Phục hoạt và Trung hưng GHPGVNTN để khỏi phụ lòng Đại Lão Hòa Thượng giáo huấn. Có điều đáng buồn là cuối bức thư của Hòa Thượng gởi cho tôi, Hòa Thượng mong mỏi một ngày gần sẽ gặp lại, nhưng ngày tôi về thì Hòa Thượng đã Cao Đăng Phật Quốc, nên tôi không còn gặp lại Tôn Sư nữa!

Nay tôi nguyện trong lòng noi gương minh triết và tôn thờ hình bóng của Hòa Thượng suốt đời.

A. DI ẢNH HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN

 hoiky26namluuday_img_2

B- BỨC THƯ CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN GỞI VÀO THĂM TÔI TẠI NHÀ TÙ

 hoiky26namluuday_img_3

Đây là bức thư đầu tiên do Thượng toạ Thích Thiện Hiền là thị giả theo hầu Hòa Thượng trong những ngày Hòa Thượng ra tù trở về chùa Giác Minh Sài Gòn cho đến khi Hòa Thượng viên tịch vào lúc 16 giờ 53,ngày mùng 9 tháng chạp năm Tân tỵ tức 21.01.2002 hưởng thọ 79 tuổi.

Sau đó TT Thích Thiện Hiền sang Úc, thời gian gần gũi TT thường nghe Hòa Thượng nhắc nhớ về tôi, nay hay tin tôi được trả tự do TT ThíchThiện Hiền từ hải ngoại gửi thư thăm , tôi xin ghi lại nguyên văn để lưu niệm trong quyển Hồi Ký nầy.

(Bài viết của TT Thích Thiện Hiền gởi tặng)

“ Người nằm xuống …

cho nghìn thu …

 vang bóng

Chân bước qua …

từ ngữ …

rụng hai lần”

BÙI GIÁNG

Chùa Huyền Quang, Úc Châu, ngày 28-02-2005

Kính thăm Thầy Thiện Minh
“Văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình”

Được nghe danh Thầy từ lâu nhưng chưa có dịp diện kiến. Nay được biết Thầy trả tự do rất mừng. Trong số tu sĩ Phật giáo có lẽ Thầy là người cuối cùng trong nhà tù Cộng Sản sau 30 năm. Bao nhiêu năm sống trong chốn lao tù đau khổ từ thể xác đến tinh thần, rất cảm động và ngưỡng mộ tinh thần bất khuất và ý chí kiên cường của Thầy.

Nhân đây cảm kích với 1 tu sĩ Bi Dũng và một người dân Việt yêu nước nên viết bài để thay thế cho những người đồng cảnh ngộ, cảm ơn và chia sẻ những đau thương cuộc đời, tôi xin thay mặt Hoà Thượng Đức Nhuận để có tấm lòng biết ơn đến Thầy. Được ra tù chắc chắn Thầy phải mang nhiều chứng bệnh. Thầy nên giữ gìn sức khoẻ và chữa bệnh, Giáo Hội và Chư Tăng sẽ giúp đỡ Thầy. Mong Thầy an tâm. Nhân đây cúng dường Thầy 200 Đô la Úc để Thầy chữa bệnh, xin nhận nơi tôi tấm lòng kính phục và thương yêu nhiều, hẹn Thầy thư sau

Kính thư

Thích Thiện Hiền ( Huỳnh -Phú)

BỒ TÁT THÍCH THIỆN MINH HÓA THÂN

Lần đầu mới nghe danh TT Thích Thiện Minh ai cũng liền nghĩ nhớ đến một vị Cố HT Thích Thiện Minh là Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên GĐPTVN, quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và sau cùng là Cố Vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Ngài đã bị Cộng Sản bắt giam năm 1979 tra tấn hành hạ thảm sát trong tù tại Sài Gòn. Sau năm 1975, Ngài viết một bản tuyên ngôn dài 10 trang đòi tự do dân chủ, nhân quyền, tôn giáo cho dân tộc Việt Nam. Do vậy Cộng Sản đã chụp mũ Ngài là CIA Mỹ nên bắt giam và tra tấn đến chết.(1) Cùng một năm đó 1979 tại tỉnh Bạc Liêu một vị ĐĐ Thích Thiện Minh vừa tròn 25 tuổi trụ trì ngôi chùa Vĩnh Bình bị Cộng Sản chiếm dụng; Thầy vì Tam Bảo đã cương quyết đấu tranh với Cộng Sản để giữ lại ngôi chùa. Cuối cùng, Thầy biết mình như nai con giữa đám mãnh hổ quần hùng làm sao thoát khỏi nên hiểu rằng:

“Con ơi nhớ lấy lời cha
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”

Do vậy, một mình Thầy không thể chống chọi lại một chế độ đầy sân hận và thù hằn, công an, quân đội, súng đạn, nay nhà tù khắp nước và tòa án nhân dân được lập ra để trừng phạt, giam giữ tùy thích khi họ muốn bắt và nhốt bất cứ ai. Bởi vậy Cộng Sản đã tuyên án Thầy tù chung thân. Bản án tù chung thân ấy không làm lay chuyển ý chí kiên cường quật khởi nên năm 1986 Thầy cùng 200 người tù đứng lên đòi tự do nhân phẩm, đời sống ăn uống, làm việc của tù nhân bị hà khắc và bóc lột. Cộng Sản tuyên thêm một bản án chung thân thứ hai. Sau đó Thầy đã bị ba năm cấm cố riêng, tay chân bị xiềng xích chỉ nằm và ngồi một chỗ. Đáng lẽ Cộng Sản đã giết Thầy, chỉ cần ra lệnh tử hình là xong nhưng thời điểm đó, các áp lực quốc tế của các tổ chức nhân quyền thế giới và sự đấu tranh của chư tôn đức trong GHPGVNTN đã can thiệp đòi trả lại sự sinh hoạt cho Giáo Hội, nên Cộng Sản nương tay không giết Thầy giống như Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh.

Sau khi Thầy được trả tự do, được báo đài trên thế giới phỏng vấn và loan tin rất nhiều nên tôi mới được nghe giọng nói Thầy thật hùng dũng và ý chí thật kiên cường. Tuy đã được thả ra nhà tù Cộng Sản sau 26 năm nhưng Thầy chưa có cái quyền tối thiểu của con người là tự do cư trú, đi lại, nói năng và hành đạo thì cũng chẳng khác gì từ nhà tù nhỏ chuyển sang nhà tù lớn đang giam giữ hơn 80 triệu đồng bào. Sống trong nhà tù lớn lúc nào cũng lo âu sợ sệt bị công an theo dõi, rình rập suốt ngày đêm, đi đâu, làm gì?… nửa đêm khuya muốn bắt ai thì nhập vào nhà xét hộ khẩu, kêu gọi lên đồn công an tra vấn, hăm dọa đủ điều. Còn những cách khác tống tiền hối lộ. Làm sao người dân yên tâm, nên bị khủng hoảng sinh ra bệnh tâm thần, nhà tù lớn của Cộng Sản thì muôn vàn thống khổ.

Được biết vào những năm Thầy ở tù chung với các vị tôn túc của GHPGVNTN các Ngài bị án tù chung thân, 20 năm hay nhiều năm bị giam giữ tại trại Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai. Trong đó Thầy có dịp gặp HT Thích Đức Nhuận nguyên chánh thư ký Viện Tăng Thống và Cố Vấn Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo, trụ trì chùa Giác Minh tại sài Gòn, TT Thích Tuệ Sỹ, TT Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), TT Thích Không Tánh, TT Thích Nhật Ban…vì vậy Thầy có cơ hội biết thêm về tin tức từ bên ngoài và nung nấu ý chí đại hùng, vô uý của chư tôn đức trong giáo hội. Tôi được biết Thầy qua lời kể của HT Đức Nhuận. Những năm HT bị bệnh trong tù, tưởng đâu HT đã chết trong tù, nhưng cũng nhờ sự săn sóc của Thầy, lo từng bát cháo trắng, viên thuốc và giặt giũ cho bộ đồ. Sau khi HT được ra tù trước, rất cảm kích công đức đó, HT thường nhắc đến Thầy và tìm bằng mọi cách làm sao giúp đỡ Thầy, từ thăm nuôi đến liên hệ thế giới can thiệp cho Thầy thoát nạn tù đày. Nhiều khi trong tù tình Thầy trò, đạo vị thương yêu thắm thiết hơn ở ngoài thế gian, bây giờ Thầy được trả tự do thì không còn gặp lại HT nữa, nếu còn chăng thì :

“Khi trở về với khung trời đổ nát
Thì tìm anh trong tận đáy hồn em”…

Trong khi đó nhà tù lớn của Cộng Sản đã làm cho con người vì tham sống sợ chết, bán rẻ lương tâm chạy theo danh lợi, làm tay sai cho ma vương: Chỉ điểm, tố cáo, vu khống, chụp mũ để làm hại Thầy trò, huynh đệ, cha con, vợ chồng… chia rẽ thành nhiều phe, tín đồ sợ sệt không dám tin ai, không dám thăm hỏi, giao du chơi thân với một ai. Vì những người thân nhất là những người dễ bị hại nhất. Ngay cả những huynh đệ cùng bổn sư chí thân chí thiết đã sợ Cộng Sản miền Bắc bỏ trốn chạy vào miền Nam nhưng vì hèn nhát, sợ tù, sợ mất quyền lợi cho bản thân mà bán rẻ lương tâm làm hại huynh đệ.

Hiện nay có vị Thiền sư nổi tiếng thế giới là huynh đệ với chư Tôn đức trong GHPGVNTN đã xa quê hương trên 40 mươi năm về Việt Nam trong thời điểm nóng bỏng. Hoa Kỳ đang áp lực Cộng Sản trả tự do cho những vị lãnh đạo tôn giáo, trong lúc GHPGVNTN đang đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam cải thiện về tự do Tôn giáo, thì Ngài được về nước truyền đạo rất thoải mái, trong khi bao nhiêu huynh đệ đấu tranh đòi tự do Tôn giáo thì bị giam cầm trên 30 năm qua. Niềm tin huynh đệ, Thầy trò xưa nay đã sụp đổ, nghi ngờ và tự nhiên trở thành hố ngăn cách. Chỉ cần một chí hướng, một thiện chí tích cực, không bị bàn tay ma vương chỉ đạo thì ở đâu cũng có thể gặp nhau dễ dàng. Bây giờ hai bên rất đau khổ muốn gặp mặt ôm nhau để khóc, để nói lên những nỗi nhớ nhung, niềm đau bao năm xa cách nhưng cũng không được. Đó là điều trớ trêu thay! Những người không muốn gặp thì sẵn sàng nhan nhản trước mặt, những người cần gặp thì lại không được gặp. Lương tâm con người mất niềm tin, phân hóa, hay sự nghi ngờ áp lực từ bên ngoài. Dù Cố HT Thích Thiện Minh đã ra đi nhưng âm hưởng của Ngài vẫn nghìn thu vang bóng, bây giờ có một TT Thích Thiện Minh hóa thân để tiếp tục sứ mệnh mà dân tộc, đạo pháp truyền trao. Pháp nạn năm 1963 có một vị Bồ Tát Đại hùng Quảng Đức vì đòi hỏi bình đẳng Tôn giáo do chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm đàn áp nên Ngài tự thiêu ngồi trong lửa đỏ an nhiên thị tịch. Đến hôm nay vị Bồ Tát vô uý Quảng Độ đã ngồi trong nhà tù lửa của tập đoàn đảng trị Hồ Chí Minh thiêu đốt Ngài 30 năm. Nhưng Ngài vẫn bất động đấu tranh tự do dân chủ, nhân quyền, Tôn giáo cho dân tộc và đạo pháp Việt nam đến hơi thở cuối cùng.

Vô ngã

THÍCH THIỆN HIỀN

THƯỢNG TỌA THÍCH TUỆ SĨ (Thế danh Phạm văn Thương)

Những ngày trong tù, Thầy sống rất bình dị, đơn giản, đạm bạc, dùng Ngọ trai mỗi ngày chỉ một lần. Tính tình vui vẻ, trí tuệ uyên bác, mặc dù thân gầy còm nhưng lúc nào cũng không xao lảng nghiên tầm chân lý, ngồi thiền, làm thơ, viết sách, dịch thuật, điêu luyện thư pháp. Trong những tháng ngày gần gũi bên nhau, tôi có dịp hiểu Thầy nhiều hơn mà cũng qua đó tôi tự trang bị cho mình chất liệu Ứng-Xử phân minh vượt lên tình thường trong cuộc sống.

Tôi nhận xét thầy rất đa tài nhưng hợp cách nhất là sở trường văn học nghệ thuật, trên lãnh vực văn chương học thuật kinh điển, hơn các lĩnh vực khác…Thầy may mắn được trả tự do về trước, sau khi ra tù tôi có gặp lại thầy vài lần, để thăm viếng nhau, để hàn huyên tâm sự tuy chưa phân cạn nỗi niềm. Trong hiện tình của GHPGVNTN đang cơn dầu sôi lửa bỏng đe dọa đến sự tồn vong của Đạo Pháp, biết mình tài sơ trí xiển tôi dấn thân cùng Giáo Hội. Rất tiếc, thiếu vắng hình bóng thầy bên cạnh để cùng đồng cam cộng khổ có nhau như những ngày tháng lưu đày. Cho dù không đủ hạnh duyên để được gần nhau nhưng những năm tháng kỷ niệm cùng nằm gai nếm mật, trải qua nhiều nghiệt ngã trong chốn lao tù tôi luôn trân trọng, nên mạng phép ghi tên Thầy vào quyển Hồi Ký nhỏ bé nầy.

THƯỢNG TỌA THÍCH KHÔNG TÁNH

Kể từ khi cùng đi gặp phái đoàn Nhân Quyền của LHQ tức ngày Chủ Nhật 24-10-1998, tôi mới biết mặt chính thức Thượng Tọa, còn nghe danh thì cũng khá lâu rồi! Thựơng Toạ Thích Không Tánh, tính tình giống như pháp danh của Ngài, tấm lòng rộng rãi thương người, dễ xiêu lòng, giàu tình cảm, sống phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết vụn vặt, nói năng hoạt bát, vui vẻ nhưng trực tính. Trong nhà tù Thượng Toạ được nhiều sự quý mến của các bạn đồng tù, ngoài việc cư xử lịch thiệp.Thượng Tọa còn nhiệt tình giúp đỡ mọi người, trong đó có tôi, mặc dù Thượng Toạ chẳng phải khá giả gì, nhưng đức hy sinh rất đáng trân trọng. Khi tôi và Thượng Tọa gặp phái đoàn Quốc Tế xong, Ngài hiểu được hoàn cảnh của tôi cũng như lý tưởng vì Đạo Pháp và Dân tộc mà tôi phải chịu triền miên mấy mươi năm liên tục trong chốn lao tù, hằng tháng Thựơng Toạ đều gửi quà hoặc tiền giúp tôi trong những ngày khốn khó. Khi tôi được trả tự do, Thầy nói với tôi là Thầy chỉ có giúp một phần nào vì Thầy cũng mới ra tù nên không có tài chính nhiều, còn hằng tháng trong mấy năm qua đều do cô Đoan Trang Giám Đốc đài phát thanh Quê Hương tình nguyện tài trợ tất cả, cho dù không biết mặt, nhưng Cô Trang rất sẵn tâm hộ giúp. Tôi xin ghi nhận đây là nghĩa cử cao đẹp của Cô Đoan Trang một người giàu lòng nhân ái, rất có tinh thần yêu nước kính đạo, được biết Cô cũng là một Phật tử đã quy y tam bảo từ lâu. Sau khi ra tù tôi có dịp tiếp xúc đôi lần qua đường dây viễn liên để bày tỏ lời cảm tạ tấm lòng vàng của người Con Phật có đạo tâm nầy, những sự phát tâm cúng dường và hộ trì chính pháp cũng như quan tâm đến những người có hoàn cảnh khốn khó, chính là thể hiện hạnh nguyện vì tha nhân vị chúng sinh đúng như lời Phật dạy của Đạo Từ Bi Trí Tuệ vậy! Cầu mong Chư Phật điểm hoá cho Phật tử trí tánh thường minh, thăng hoa tuệ mệnh, phát triển thiện căn và phúc duyên vô lượng.

BÁC DOÃN QUỐC SĨ

Bác là nhà Văn Hóa, một bậc mô phạm, đầy đủ tư cách, một trí thức uyên thâm, tính tình từ tốn, lịch sự nhã nhặn, ôn tồn và thật phúc hậu. Bác là một Phật tử trí thức thuần hòa đạo hạnh. Trong trại tù Xuân Lộc, tôi có duyên được gặp bác, Bác có tặng tôi một bài thơ, bác làm tại khám Chí Hoà nhân đêm tối Bác trông thấy con gà đang mổ những hạt cơm rơi vải của tù:

” Chú gà mà đi ăn đêm
Thấy hạt cơm mềm vung vãi đâu đây
Đêm khuya tội nghiệp cho mầy
Vất vả canh chầy một bóng thành hai”

Tôi còn nhớ, những ngày ở trại Xuân Lộc, bác bảo tôi sau nầy nếu ra tù sẽ làm tập thơ “Vườn Hồng” thơ trong tù và khuyên tôi thử làm thơ thay lời tựa, tôi có làm tạm mấy câu sau:

“Những người yêu nước sa cơ
Nỗi lòng cảm xúc làm thơ trong tù
Đi tù cũng giống đi tu,
Kiên trì chẳng khác công phu đãi vàng
Vườn Hồng cúc,huệ, đào,lan
Thiên niên,vạn thọ,mai vàng, lựu, lê
Thơ tù đậm nét tình quê
Thắm tình dân tộc lời thề nước non
Hiến dâng Tổ Quốc .. Lòng son
Tổ Tiên rạng rỡ … cháu con Lạc Hồng ..! “

GIÁO SƯ NGUYỄN VĂN BẢO

Một nhà giáo có tư cách, nhiệt tình dìu dắt anh em, có tinh thần đấu tranh chung. Ngoài ra Giáo Sư Nguyễn văn Bảo còn là một tín hữu Đạo Cao Đài thuần thành, ông rất có nhiều tâm huyết trên tinh thần dân tộc, có chí lớn, cưu mang những hoài bảo ích quốc lợi dân. Đặc biệt là trên lĩnh vực “Văn hóa Dân tộc”, thắm đượm tình yêu quê hương. Ông đã từng đại diện cho tín đồ Cao Đài trong nhà tù sẵn sàng cùng các Tôn giáo đồng ký tên trong một Bản Kiến Nghị gửi đến LHQ.

Nhiều năm tôi cùng Giáo Sư sống bên nhau rất thân tình, dầu tuổi tác có chênh lệch nhau gần 16 tuổi nhưng lúc nào Giáo sư cũng xem tôi như người bạn vong niên trong tình “Khế Hữu”.

Chúng tôi trải qua đồng cam cộng khổ có nhau, Giáo Sư Bảo tuổi cao lại bị cưỡng bức lao động khổ sai nên đôi mắt Ông bị bệnh khá nặng, Ông nhìn cảnh vật chung quanh lờ mờ thật vô cùng khó khăn cho mọi sinh hoạt thường nhật trong tù. Tuy gặp cảnh gian truân nhiều thử thách nhưng Ông vẫn giữ lập trường “Bất di bất dịch” cho đến ngày mãn án 20 năm lưu đày biệt xứ. Tôt rất trân trọng tình cảm và ý chí kiên trung của Ông.

Trong thời gian ở chung phòng có cơ hội thuận tiện tiếp xúc trao đổi những tâm tình. Giáo sư Bảo có tặng tôi một bài thơ kỷ niệm trong tù như sau:

Kể từ thuở khơi sâu nguồn sống Việt
Ánh từ quang của minh triết vô biên
Sóng triều dâng ý thức hệ Rồng Tiên
Bủa ào ạt khắp bến bờ lịch sử ..!

Trong tuyệt đỉnh của tôn vinh quá khứ
Là đuốc thần chiếu rạng cả tương lai
Trong mênh mông các mạch sống hòa hài
Khắp vũ trụ bao la đầy tinh thể ..!

Ánh nhật nguyệt chứa chan tình nhân thế
Khí Càn Khôn hun đúc khối anh linh
Là hồn thiêng của sóng nước Động Đình
Nòi Bách việt vươn mình xây nghiệp cả ..!
Với chứng tích của tinh hoa văn hóa
Với kỳ công hiễn lộng khắp năm châu
Và oai linh của cha Lạc mẹ Âu
Rọi chính khí qua muôn nghìn thế hệ ..!

Đường lịch sử tuy gập ghềnh hưng phế
Cuộc biến thiên có suy thạnh đổi thay
Từ Hùng Vương dựng nước đến ngày nay
Dân Tộc Việt rạng danh nòi giống Việt ..!

CỤ PHAN ĐÌNH HIỀN

Một ông lão quắc thước, mạnh khoẻ và dồi dào sinh lực, thích sưu tầm, nghiên cứu học hỏi. Cụ là người “Đa văn quảng kiến” lúc nào cũng khiêm nhượng sẵn sàng xin hướng dẫn những điều Cụ chưa biết, cho dù người ấy chỉ đáng tuổi là con là cháu của Cụ. Đây là tấm gương tốt ít có người làm được. Cụ Hiền luôn giữ gìn tư cách và tác phong đạo đức cho dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào. Ngoài ra Cụ cũng là người rất hâm mộ Đạo Phật, rất quý kính Thầy Tu của các Tôn giáo. Tôi được Cụ thương yêu và giúp đỡ tận tình trong những lúc khó khăn, mấy dòng chữ nầy để nhớ nghĩa ân của Cụ. Dù biết rằng ngày tôi về rất khó có dịp gặp nhau vì tuổi Cụ đã xế chiều, mong sao Cụ được phúc thọ tăng long để tận mắt nhìn đất nước VN một ngày vui rực sáng.

HT THÍCH HUỆ ĐĂNG

Một người đa mưu túc trí, nhà tham mưu nhạy bén, cùng đồng tù, đồng tu. Thầy rất rộng rãi, nói năng hoạt bát, lý luận nhạy bén, mưu trí sắc sảo, trí nhớ tốt. Những điều kém khuyết Huynh đệ đến thỉnh ý, Hòa Thượng sẵn sàng nhiệt tình góp ý với những sáng kiến khá độc đáo và sâu sắc. Hòa Thượng rất quan tâm hộ giúp tôi từ trong tù. Đặc biệt ngày về đầu tiên, sự bất ngờ lớn nhất của tôi là Hòa Thượng đã chuẩn bị rất chu đáo từ Y, hậu, Chuỗi, áo Thiên Sam (áo Tràng), quần áo mặc thường nhật cho đến thuốc men trị bệnh kể cả kinh sách.Tôi xin ghi nhận nghĩa cử nầy là một thâm ân nên ghi vài hàng vào trang Hồi ký.

ANH NGUYỄN VĂN CHIẾN

Một tín hữu thuần thành, một con chiên ngoan Đạo của Chúa, một người có nhân cách được nhiều anh em trong tù mến mộ. Trải qua nhiều năm trong tù nhưng lòng kiên định, Anh Nguyễn văn Chiến là một Mạnh Thường Quân rất tế nhị, trợ giúp tôi trong những lúc khó khăn.

Những ngày quen biết nhau trong nhà tù Cộng Sản, tất cả các vị có tên nói trên tôi xin mạn phép được ghi vào trang hồi ký của mình. Ngoài ra ít nhiều các bạn đồng tù khác cũng chia sẻ những vui buồn từ vật chất đến tinh thần, mọi người đều là Ân Công của tôi trong năm tháng lao tù, xem như là kỷ niệm của cuộc đời, tôi không thể nào quên.

Xin thành tâm cầu nguyện cho những ân công của tôi được vạn sự phúc lành, vô biên an lạc.

1. NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC VỚI CÁC TỔ CHỨC HẢI NGỌAI BỊ CÂU LƯU TẠI VIỆT NAM.

Cổ nhân có câu “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Lòng ái quốc là bổn phận, là ý thức trách nhiệm của mọi người dân đối với quốc gia dân tộc. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng của toàn dân, chứ không phải của riêng ai. Cho dù là người Việt Nam trong nước hay ngoài nước đều có chung một cội nguồn là Con Rồng Cháu Tiên, Bố Lạc Long quân và Mẹ Âu Cơ, là con cháu Vua Hùng. Những người cùng chí hướng ắt sẽ có cơ hội gặp nhau. Vì thế những ngày tại trại Xuân Lộc, tôi có dịp gặp gỡ tiếp xúc với một số anh em trong các tổ chức chính trị từ hải ngoại về nước hoạt động bị bắt như:

  • Tổ chức của Hoàng Cơ Minh
  • Tổ chức của Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy
  • Tổ chức Việt Nam Tự Do của Nguyễn Hữu Chánh
  • Tổ chức Đảng Nhân Dân Hành Động của Nguyễn Sĩ Bình
  • Phong trào đấu tranh Công Cuộc Vì Công Lý của Nguyễn Sĩ Bình
  • Nhóm Hoa Phượng Đỏ của Hoàng Việt Cương ..v..v..

Mỗi tổ chức có Đề cương, Cương lĩnh và mục tiêu đấu tranh gần như tương tự như nhau, nếu có khác nhau là phương thức hành động. Chắng hạn như có tổ chức đấu tranh ôn hòa bất bạo động, có tổ chức cần vũ trang để hổ tương cho giải pháp chính trị. Theo quan niệm của một vài tổ chức nếu đấu tranh với CS mà chỉ có lên tiếng kêu gọi thì chậm lắm. CS nói hay lắm! Còn thủ đoạn thì Cộng Sản bậc nhất, hòa đàm của CS là sách lược để chờ cơ. Theo tôi kinh nghiệm nhiều năm trong tù thấy rằng:

NHẬN ĐỊNH:

a. Nếu có Tư Bản là có Cộng Sản

b. Cộng Sản không mấy sợ Tư Bản, mà CS chỉ sợ CS phản lại CS và sợ toàn dân nổi dậy

c. Cộng Sản có thể Chiến thắng trong Chiến Tranh nhưng CS lại thất bại trong hòa Bình.

d. Chính Quyền VNCH của Miền Nam trước đây ở trên tan hàng, dưới phải bỏ chạy.

e. Chính CS sẽ sụp đổ vào ngày N giờ G do ở trên cắn nhau, dưới tan hàng.

PHƯƠNG HƯỚNG CỨU QUỐC:

Muốn giải bỏ chế độ Cộng Sản phải đề ra 4 phương sách cứu quốc như sau :

1. Chủng hoạn cứu nạn:

Tức là dựa vào thời điểm dân tộc bị họa nạn trong cảnh tang thương, lúc ấy đứng ra giải trừ cứu nguy đất nước là hợp thời cơ nhất.

2. Dĩ di diệt di: (gậy Ông đập lưng Ông)

Lấy thế CS, lực CS và người CS, dựa vào những điều CS đã nói trong Hiến Pháp cũng như những Cam Kết Quốc Tế để xóa sạch CS bảo thủ cực đoan, xây dựng một xã hội dân sự, thể chế dân chủ Đa nguyên.

3. Hồ tử xuất động:

Các phong trào yêu nước, các tổ chức chính trị, các đoàn thể Tôn Giáo đoàn kết đứng lên cùng phối hợp hành động đấu tranh 2 mặt: Tôn giáo và Nhân quyền nhằm thay đổi điều 4 trong Hiến Pháp, từng bước một giải thể chế độ Cộng Sản ở Việt Nam.

4. Bất chiến tự thành:

Cuộc đấu tranh phải chủ trương ôn hòa bất bạo động là chính, không cần dùng bạo lực, nhưng phải bảo đảm tính chất Quốc tế và Quốc nội, khi thiên thời, địa lợi, nhân hòa cả 3 đều đủ, lúc ấy sẽ giải cứu quê hương đất nước VN thoát khỏi vòng hiểm họa và giải trừ sạch pháp nạn cho tất cả các Tôn giáo tại Việt Nam. Xin lưu ý, có một số người đấu tranh đòi Đa Đảng Đa Nguyên, nhưng lại muốn tiêu diệt sạch Đảng CS, thì sẽ mâu thuẫn với khẩu hiệu đòi Đa Đảng …

2. NHỮNG NGUYỆN VỌNG CHÍNH ĐÁNG VÀ THIẾT THỰC CỦA TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TÙ CS.

Khát vọng tự do là niềm mơ ước muôn thuở của con người. Đặc biệt là trong hoàn cảnh tù đày, thì niềm khát khao sự tự do được nhân lên gấp bội. Hiện tại trong nhà tù CS, không những tù nhân Chính trị và Tôn giáo, mà tất cả các thường phạm khác đều đang thiếu thốn cả 2 mặt tinh thần và vật chất, “đói tri thức là một điều đau khổ nhất, bị bỏ đói tri thức là một nhục hình về lĩnh vực tinh thần thật vô cùng tàn bạo, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thông tin và tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay”. Những năm tháng tù đày, tôi hiểu được những nguyện vọng bức xúc của người tù đang cần được đáp ứng như sau:

  • Cải thiện chế độ lao tù, tăng tiêu chuẩn ăn, mặc, ở, sinh hoạt tối thiểu cho tù nhân.
  • Tu chính “Pháp Lệnh thi hành án phạt tù”.
  • Ban hành quy chế và đối sách đặc biệt với tù nhân Chính Trị và lương thức cho phù hợp với luật pháp quốc tế.
  • Mở thư viện có đủ loại sách báo để người tù cập nhật và nâng cao kiến thức của mình,
  • Cải cách phương pháp giáo dục.
  • Hạ giá căng-tin, vì trại độc quyền và siêu lãi.
  • Trả tự do cho những người già yếu bệnh tật, những tù nhân chính trị, Tôn giáo và những tù nhân ở quá lâu năm.
  • Giảm bớt hình thức kỷ luật, nhục hình đối với tù nhân.
  • Giảm án, đặc xá nhiều.
  • Phòng giam các thường phạm quá tải.
  • Giảm bớt giờ lao động, được nghỉ hẳn ngày Chủ nhật.
  • Không được quyền đánh đập tù nhân, xúc phạm tới nhân phẩm người tù. v..v….

Những ngày cuối cùng tôi được cục V26, Cục Quản lý trại  giam, Bộ Công An gọi lên làm việc. Đến ngày 02-02-2005, tức ngày 24-12 ÂL, năm Giáp Thân, chỉ còn khoảng tuần lễ nữa là Tết năm Ất Dậu, tôi chính thức được trả tự do. Sáng hôm ấy Ông phó Giám thị kiêm Trưởng phân trại K3, Nguyễn Quang Huy là một tên có tiếng gian hùng, ác độc và thâm hiểm đã gọi Giáo Sư Nguyễn Đình Huy và tôi làm việc để công bố lệnh Đặc Xá của Chủ Tịch Nước trả tự do trước thời hạn. Giáo sư Nguyễn Đình Huy làm việc trước khoảng hơn ½ giờ, đến lượt tôi. Khi bước vào phòng tôi thấy trên bàn có đặt sẵn 1 máy ghi âm loại nhỏ, tôi có trình bày cảm tưởng của mình và đề xuất 4 tăng, 4 giảm, nội dung cũng gần giống như nguyện vọng chung mà tôi đã trình bày trên như:

4 TĂNG là:

  1. TĂNG mở thư viện có đủ sách báo.
  2. TĂNG chế độ tiêu chuẩn.
  3. TĂNG thêm nước dùng sinh hoạt.
  4. TĂNG đặc xá, thả tù.

4 GIẢM là:

  1. GIẢM bớt kỷ luật.
  2. GIẢM bớt người ở các phòng thường phạm, vì quá chật chội.
  3. GIẢM giờ lao động,và tù nhân phải được nghỉ ngày Chủ Nhật.
  4. GIẢM giá Căng Tin bóc lột tù nhân.

Sau khi phỏng vấn xong, Trung Tá Hồng và một ông phó giám thị khác mời tôi sang phòng bên, viết lại cảm tưởng trước khi về buồng giam lấy đồ đạc cá nhân ra xe. Tôi chỉ được nói những lời chia tay một cách vội vã với những anh em đồng tù và đón nhận nhiều ý kiến, nếu có dịp nên nói lên tiếng nói về quyền con người cho các anh em đang còn ở lại, nhất là cảnh người tù ngày đêm đang bị đoạ đày khốn khổ. Khi ra cổng tôi gặp Cán bộ Giáo dục tên Hòa cấp bậc trung tá, trình những giấy lưu ký để nhận lại quần áo, sách báo tôi gởi từ lâu. Tên trung tá Hòa chỉ đưa quần áo, còn sách báo thì anh ta nói rằng,“ Cán bộ phụ trách kho đã đi vắng, và hứa sẽ gửi đến tận nhà qua đường dây bưu điện,” nhưng từ khi được trả tự do đến nay gần 9 tháng rồi mà tôi chẳng thấy quyển sách nào? Cũng như tôi muốn nhắc lại sau khi ra cổng họ đưa tôi đến cơ quan trung tâm Ban giám thị để nhận Giấy Ra Trại, đưa xe chở tôi về thành phố Sài Gòn, tôi nhờ họ đưa tới nhà người chị thứ hai tại số 181 đường Đồng Đen, phường 11 quận Tân Bình. Anh rể tôi tên Trần Trung Hiếu ra nhận, Công an chụp hình, bắt tay từ giã. Đêm đó tôi tạm ở nhà người chị, 8 giờ sáng hôm sau tôi đến thăm Hòa Thượng Thích Huệ Đăng tại đường Bùi Viện Quận 1, cảm động nhất là Hòa Thượng đã may sẵn, Y, Hậu, áo tràng nâu, chuỗi, mũ len, quần áo, thuốc uống .v.v… cho tôi trong ngày đầu tiên mới được ra tù vì Hòa Thượng kinh nghiệm rằng giai đoạn đầu là khó khăn nhất “Vạn sự khởi đầu nan”

Sau đó tôi tỏ lời đa tạ từ giã Hòa Thượng và đến chùa Liên Trì để thăm, đồng thời cảm ơn Thượng Tọa Thích Không Tánh. Nơi đây tôi có cuộc tiếp xúc ngắn hạn với Bác Võ Văn Ái, Giám đốc Phòng thông tin Phật Giáo Quốc Tế, Cô Đoan Trang Giám Đốc đài Quê Hương. Tôi cảm ân hai vị đã lên tiếng ủng hộ tôi trong nhiều năm qua. Đặc biệt là có cuộc phỏng vấn đầu tiên với Cô Ỷ Lan Đặc Phái Viên đài Á Châu Tự Do. Khoảng 5 giờ chiều tôi đến Thanh Minh Thiền Viện viếng thăm đảnh lễ Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, rồi ra bến xe về Bạc Liêu trong chuyến xe đêm.

Mọi cảnh vật chung quanh đối với tôi hoàn toàn xa lạ, tôi thoát khỏi cảnh tù hãm nhiều năm, nhưng trong lòng vẫn tự biết hoàn toàn chưa được hưởng trọn vẹn cảnh “Tháo cũi sổ lồng”. Nhà tù lớn đang chờ đợi tôi, cũng như đang kềm kẹp 80 triệu đồng bào Việt Nam, là 80 triệu tù nhân trong nhà tù lớn đang rên siết dưới ách cai trị tàn bạo của tập đoàn CS độc tài toàn trị. Tuy nhiên đây cũng là ngày tôi được trở về quê cũ sau 26 năm bị lưu đày biệt xứ để bước vào một cuộc đấu tranh mới nhằm giải thể chế độ Cộng Sản, mang laị tự do dân chủ thực sự, hạnh phúc thực sự cho đồng bào tôi.

3. DANH SÁCH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO CÒN Ở TRẠI XUÂN LỘC (Phân trại 3)

Trước lúc tôi về, hiện còn khoảng 60 tù nhân chính trị và tôn giáo gồm 2 đội, đội 17 và 18 tại K3, một vài tháng sau khi tôi được trả tự do, thì số người có thể thay đổi. Tôi còn nhớ tên 61 anh em sau đây:

  1. Phạm Minh Trí 66 tuổi, Linh mục dòng Đồng Công
  2. Nguyễn Viết Huân 56 tuổi, Thầy dòng thuộc dòng Đồng Công
  3. Ngô Văn Ninh 87 tuổi, Hội trưởng GHPG Bửu Sơn Kỳ Hương.
  4. Lê Văn Chương 42 tuổi Tu sĩ GHPG Bửu Sơn Kỳ Hương.
  5. Nguyễn Văn Sĩ 42 tuổi, Pháp danh Thích Thiện Tâm, phái Nam Tông ở Campuchia, thuộc Đảng Nhân Dân Hành Động của Nguyễn Sĩ Bình
  6. Lê Văn Tính 66 tuổi, cựu cán bộ ban giảng huấn GHPG Hòa Hảo thuần túy, tham gia Đảng Nhân Dân Hành Động. (*)
  7. Nguyễn Tuấn Nam, tự Bảo Giang 68 tuổi, đang bị liệt và ho ra máu, 68 tuổi, Đảng NDHĐ
  8. Nguyễn Văn Trại 70 tuổi, Đảng NDHĐ
  9. Lâm Kiên 70 tuổi, Đảng NDHĐ
  10. Bùi Đăng Thuỷ 61 tuổi, Đảng NDHĐ
  11. Nguyễn Anh Hảo 61 tuổi, Đảng NDHĐ
  12. Trần Công Minh 59 tuổi. Đảng NDHĐ
  13. Nguyễn Hữu Phu 51 tuổi, Đảng NDHĐ
  14. Đổ Hữu Nam 47 tuổi, Đảng NDHĐ
  15. Nguyễn Văn Hậu 47 tuổi, Đảng NDHĐ
  16. Lê Đông Phương 46 tuổi, Đảng NDHĐ
  17. Võ Văn Ngọc 46 tuổi
  18. Nguyễn Sĩ Bằng 44 tuổi, Chiến Dịch Hoa Phượng Đỏ của Hoàng Việt Cương
  19. Phạm Xuân Thân 51 tuổi
  20. Trương Văn Duy 37 tuổi
  21. Lê Kim Hùng, Tổ chức VN Tự Do
  22. Hồ Long Đức
  23. Nguyễn Thanh Vân
  24. Nguyễn Văn Phương
  25. Nguyễn Ngọc Phương
  26. Nguyễn Hoàng Giang
  27. Nguyễn Văn Hưỡng
  28. Nguyễn Văn Nhựt
  29. Phạm Văn Mười
  30. Sơn Nguyễn Thanh Điền
  31. Nguyễn Minh Mẫn
  32. Nguyễn Văn Minh
  33. Huỳnh Bữu Châu
  34. Huỳnh Anh Tú
  35. Huỳnh Anh Trí
  36. Nguyễn Văn Thân
  37. Trần Văn Đức
  38. Võ Sĩ Cường
  39. Phạm Minh Tuấn
  40. Ngô Thanh Sơn
  41. Trần Văn Thái
  42. Đổ Thanh Vân (tự Nhàn)
  43. Đinh Quang Hải
  44. Lâm Quang Hải
  45. Nguyễn Anh Hào
  46. Tô Thanh Hồng
  47. Mai Xuân Khánh, Tổ chức trong nước
  48. Phương Văn Kiếm
  49. Trần Văn Thiêng
  50. Trần Văn Mát
  51. Võ Văn Xúc
  52. Nguyễn Văn Xuân
  53. Phan Quốc Dũng
  54. Phan Văn Trước
  55. Lại Phú Thuận
  56. Vòong Sĩ Hồng
  57. Nguyễn Văn Hoa
  58. Nguyễn Văn Chung
  59. Nguyễn Sinh Nhặt
  60. Bùi Rê
  61. Nguyễn Hữu Cầu (*), Đại úy Quân lực VNCH

(*) Trong số 60 người thì Ông Lê Văn Tính và Nguyễn Hữu Cầu đang bị giam riêng tại K2 trên 10 năm.

Danh sách 9 tù nhân chính trị mới chết trong vòng 2 năm vì đau ốm, đói khát và đánh đập gồm:

A- Đảng Nhân Dân Hành Động

1. Lý Nhựt Thanh

3. Hồ Quốc Dũng

4. Hoa Văn Xuân

B-Tổ chức Việt Nam Tự Do:

1. Nguyễn văn Bình

2. Sơn Tâm

3. Nguyễn Văn Hà

C- Các Tổ chức khác 2 người chết :

1. Nguyễn Văn Chiến

2. Nguyễn Minh Tân

4. TÂM TÌNH CỦA MỘT VÀI THƯỜNG PHẠM GẶP NHAU TRONG XÀ LIM KỶ LUẬT

Tôi nhiều lần ở chung trong phòng kỷ luật hoặc cùm chân chung trong một cây sắt quyện với các anh em thường phạm, quân phạm … Trong tận cùng thống khổ các anh em thố lộ tâm tình với tôi như một ăn năn hối hận vì thiếu chu toàn bổn phận của một người con, một người chồng và một người cha … Khi còn bên ngoài xã hội họ thường hay biếng nhác, trốn tránh việc gia đình, lại lêu lổng bê tha, tụ tập cùng chúng bạn. Nhiều khi có nhưng người đã lập gia đình nhưng thường phó mặc tất cả cho vợ con. Mỗi khi cha mẹ quở mắng hay vợ con phiền trách thì đôi co hỗn láo với cha mẹ, bức hiếp đánh đập vợ con, ỷ mình là chồng, là cha.v.v…đến khi vào tù thì phải tuân thủ không dám trái lời, vì phản kháng là bị cùm, quyện, gậy gộc, gối chỏ, là biệt giam và cho ăn uống đói khát, lúc đó mới thấm thía cái không khí đầm ấm của gia đình ! Hồi còn ở ngoài đời, mỗi lần về nhà hễ trông thấy mâm cơm thức ăn không ngon là lên tiếng than phiền, trách cứ, rồi ra quán kêu bia, kêu phở .v.v…Khi bị bắt vào tù, bị kỷ luật ngồi trong cùm quyện, lúc ấy, trong cô đơn đói khổ thống thiết mới biết nghĩ mà thương cha, nhớ mẹ, thương tưởng đến vợ con, thì mọi việc đã muộn màng rồi !

Có người vừa tâm sự với tôi xong, chỉ mấy hôm sau bị bạo bệnh chết trong phòng kỷ luật, không những thế mà thân xác còn bị Pháp y mổ xẻ cắt từ miếng thịt hay não để giám định y khoa. Lúc ấy tôi chỉ biết thầm cầu nguyện cho người vừa yên nghỉ mà thôi! Phần đông các anh em thường hay viện lý do và đổ thừa cho hoàn cảnh nên sa vào chốn hư hỏng … nào là do hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh cuộc sống, hoàn cảnh mồ côi, hoàn cảnh khổ nghèo . v.v…Thỉnh thoảng có người mạnh dạn tự nhận trách nhiệm về mình nhưng vẫn chưa cải ác hoàn lương, chưa có hướng đi vững chắc nên dễ quay lại con đường mòn cũ…Nhiều anh em tỏ ra có tinh thần chống cái sai, chống bất công của xã hội nhưng chưa có người lèo lái dẫn đường. Nói tóm lại đa phần những thường phạm trong tù họ có sự gan dạ, dũng cảm, táo bạo, họ vẫn có nghĩa và trung thành trong giới giang hồ của họ, họ có sự hy sinh quên mình vì kẻ khác…nếu biết phát huy đúng mức, còn mỗi khi sa vào tội lỗi thì cũng khó mà lường được ..!

Ở Việt Nam hậu quả của hòan cảnh rất nhiều, nên biết bao thanh thiếu niên bị hư hỏng, đây cũng là vấn đề nhức nhối của xã hội hiện tại và cả tương lai mà những nhà đạo đức, tôn giáo, giáo dục, tâm lý, xã hội và bất cứ chính quyền nào cũng cần phải đáng lưu tâm.

Chú thích:

(1) Tài liệu này được lưu trữ tại văn phòng II Viện Hóa Đạo và phòng Thông Tin Phật giáo Quốc Tế.

Bình luận về bài viết này